Báo cáo thường niên lần thứ 36 về tình hình hậu cần: Vượt qua sự bất ổn trong bối cảnh chi phí tăng cao và gián đoạn toàn cầu

Khi thị trường logistics toàn cầu đạt gần 6 nghìn tỷ đô la vào năm 2030, các nhà vận chuyển Hoa Kỳ đang phải đối mặt với một môi trường đầy biến động, được đánh dấu bởi những thách thức về kinh tế, địa chính trị và môi trường. Báo cáo Tình hình Logistics (SoL) thường niên lần thứ 36 cho thấy chuỗi cung ứng đang biến động, với sự lạc quan mong manh về tương lai. Mặc dù thương mại điện tử cho thấy nhiều triển vọng, nhưng căng thẳng thuế quan dai dẳng, chi phí leo thang và những gián đoạn toàn cầu vẫn tiếp tục tác động đến ngành logistics.

Các chuyên gia hậu cần đang “lướt qua màn sương mù” của những áp lực kinh tế, địa chính trị và môi trường đang diễn ra với chỉ “sự lạc quan mong manh” về những gì sắp tới.

Báo cáo thường niên lần thứ 36 về tình hình hậu cần: Vượt qua sự bất ổn trong bối cảnh chi phí tăng cao và gián đoạn toàn cầu

Đó là đánh giá đáng suy ngẫm của Hội đồng các chuyên gia quản lý chuỗi cung ứng (CSCMP) trong báo cáo thường niên lần thứ 36 “Tình hình hậu cần” (SoL) , do công ty tư vấn toàn cầu Kearney biên soạn và công bố tại Thành phố New York vào ngày 3 tháng 6.

“Nhìn về năm 2025, triển vọng cho thấy sự lạc quan mong manh, do nhu cầu yếu, hội nhập công nghệ và sự tập trung liên tục vào khả năng phục hồi và tính bền vững”, các tác giả viết. “Những bất ổn – đặc biệt là những bất ổn do căng thẳng thương mại thuế quan mới gây ra – sẽ vẫn là trọng tâm.”

Mặc dù một số lĩnh vực của ngành đã trở lại mô hình trước đại dịch vào năm ngoái, thị trường nhìn chung vẫn ảm đạm. Cung và cầu bắt đầu cân bằng lại sau nhiều năm gián đoạn, nhưng năm 2024 vẫn được đánh dấu bằng khối lượng giao dịch không đổi, công suất xe tải dư thừa và chi phí vận hành tăng cao – đặc biệt là chi phí nhân công và nhiên liệu – làm giảm biên lợi nhuận của các hãng vận tải và nhà cung cấp dịch vụ hậu cần.

Thương mại điện tử vẫn là một điểm sáng. Doanh số bán lẻ trực tuyến toàn cầu đạt gần 6,3 nghìn tỷ đô la vào năm ngoái, thúc đẩy nhu cầu giao hàng chặng cuối nhanh hơn và kho bãi hiệu quả hơn. Nhu cầu này đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kỷ lục của vận tải hàng không – một trong số ít hình thức vận tải có hiệu suất cao.

Đồng thời, chiến tranh ở Trung Đông và Ukraine đã làm gián đoạn các tuyến vận tải biển quan trọng như Biển Đỏ và đẩy giá cước vận tải biển tăng vọt – dù chỉ là tạm thời. Những gián đoạn liên quan đến khí hậu – bao gồm bão ở Vịnh Mexico, đợt nắng nóng Địa Trung Hải, bão mùa đông ở Bắc Âu và hạn hán ở Brazil – càng thử thách hơn nữa khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Báo cáo cho biết thêm: “Những diễn biến này dẫn đến thời gian vận chuyển tăng lên, hạn chế về năng lực và biến động giá cước vận tải đường biển, cũng như sự phụ thuộc nhiều hơn của người vận chuyển vào các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba (3PL) để được hỗ trợ toàn diện”.

Logistics Management , tạp chí đã đưa tin về mọi báo cáo SoL kể từ khi được cố Bob Delaney ra mắt vào năm 1989, cung cấp phân tích chuyên sâu về những phát hiện của năm nay—nêu bật các yếu tố định hình bối cảnh logistics hiện nay và các chiến lược mà các chuyên gia đang sử dụng để mang lại kết quả đẳng cấp thế giới trong bối cảnh bất ổn liên tục.

Tình hình Logistics qua các con số

Những xu hướng và số liệu thống kê đáng chú ý từ báo cáo SoL bao gồm chi phí logistics kinh doanh của Hoa Kỳ năm ngoái đạt 2,6 nghìn tỷ đô la, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Con số này tương đương 8,7% GDP quốc gia. Năm trước, con số này lần lượt là 2,3 nghìn tỷ đô la và 8,7%.

Tại Hoa Kỳ, khu vực tư nhân đã hỗ trợ sản lượng vận tải và hậu cần tăng 2,7%. Con số này vượt xa tình trạng tăng trưởng chậm ở châu Âu, nơi chỉ tăng 0,6%.

Ngành logistics năm 2024 cũng chứng kiến ​​sự trở lại của mô hình trước đại dịch ở một số khu vực. Tuy nhiên, ngành cũng gặp phải những khó khăn như khối lượng giao dịch trì trệ, công suất xe tải dư thừa và chi phí vận hành tăng cao.

Ngành vận tải đường bộ tại Mỹ “đã có dấu hiệu phục hồi” trong nửa cuối năm ngoái, với giá cước giao ngay và tỷ lệ từ chối thầu đều tăng. “Tuy nhiên, những cải thiện này chỉ ở mức nhỏ và bước ngoặt được kỳ vọng đã bị đẩy lùi đến năm 2025”, báo cáo cho biết.

Thương mại điện tử tiếp tục phát triển mạnh mẽ. Doanh số bán lẻ trực tuyến toàn cầu đạt gần 6,3 nghìn tỷ đô la. Điều này dẫn đến việc giao hàng chặng cuối hiệu quả hơn, kho bãi ngày càng linh hoạt và nhu cầu vận tải hàng không tăng cao.

Trong khi đó, sản lượng vận tải và hậu cần toàn cầu dự kiến ​​sẽ tăng trưởng 4,1% trên toàn thế giới. Tại Hoa Kỳ, mức tăng trưởng này được dự đoán ở mức 2% trong năm nay, “phản ánh một bước tiến ổn định nhưng không quá ngoạn mục”, theo báo cáo.

Thị trường hậu cần toàn cầu dự kiến ​​sẽ đạt 5,9 nghìn tỷ đô la vào năm 2030. Đó là tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 7,2%, phần lớn là nhờ sự phát triển liên tục và không ngừng của thương mại điện tử.

Để theo kịp tốc độ của thương mại điện tử, công nghệ sẽ tiếp tục định hình năm 2025, “với AI [trí tuệ nhân tạo] và tự động hóa dự kiến ​​sẽ thâm nhập sâu hơn vào các hoạt động hậu cần”, báo cáo kết luận.

Đặc biệt, các tác giả cho rằng việc triển khai AI có thể đóng vai trò như một “điểm uốn” để chống lại sự suy giảm dài hạn về năng suất tổng yếu tố, thúc đẩy GDP toàn cầu khi lao động của con người được phân bổ lại cho các hoạt động hiệu quả hơn.

Các tác giả cho biết: “Các công ty hậu cần ngày càng muốn áp dụng AI để có khả năng hiển thị hàng tồn kho theo thời gian thực và đưa ra quyết định, trong khi tự động hóa kho hàng tốt hơn có thể xử lý ngày càng nhiều loại nhiệm vụ, do đó giảm thiểu tình trạng thiếu hụt lao động”.

Tuy nhiên, căng thẳng địa chính trị, cùng với các mức thuế quan được đề xuất và ban hành, cùng các quy định thương mại luôn thay đổi trên toàn thế giới đã làm tăng thời gian vận chuyển, hạn chế năng lực, biến động giá cước vận tải đường biển – tất cả dẫn đến thời gian giao hàng tận nhà kéo dài hơn và chậm trễ hơn. Điều này cũng dẫn đến việc phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba (3PL) để cung cấp hỗ trợ trọn gói.

Mexico đã vượt qua Trung Quốc để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Mỹ vào năm ngoái. Kim ngạch thương mại giữa Mỹ và Mexico đạt mức kỷ lục 840 tỷ đô la – tăng 6% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, báo cáo cảnh báo rằng mối đe dọa gia tăng thuế quan từ cả hai nước đang đe dọa sự tăng trưởng này.

Quan điểm mô thức

Như trước đây, vận tải đường bộ vẫn tiếp tục là động lực thúc đẩy cỗ máy vận tải quốc gia với tư cách là phương thức vận tải lớn nhất. Báo cáo của Kearney ước tính tổng giá trị ngành vận tải cơ giới đạt 994 tỷ đô la vào năm ngoái, thấp hơn một chút so với mức 1.001 nghìn tỷ đô la vào năm 2023.

Vận tải đường bộ tư nhân (hay còn gọi là vận tải chuyên dụng) đạt 541 tỷ đô la vào năm ngoái. Tiếp theo là vận tải toàn tải (LTL) với 387 tỷ đô la. Vận tải hàng lẻ (LTL) đạt 66 tỷ đô la – mặc dù số liệu từ SJ Consulting cho thấy LTL đạt khoảng 54 tỷ đô la do phương pháp tính toán khác nhau.

Tuy nhiên, bức tranh kinh tế chung của ngành vận tải đường bộ đang trở nên bất định hơn. Thay vì ổn định, triển vọng hiện đang bị che mờ bởi căng thẳng địa chính trị toàn cầu leo ​​thang. Đối với các hãng vận tải Hoa Kỳ, thuế quan “có thể tạo ra áp lực tài chính mới”, kết hợp với khả năng sụt giảm khối lượng vận tải hàng hóa, sẽ tiếp tục làm giảm biên lợi nhuận của các hãng vận tải trong năm nay và có thể cả những năm sau đó, báo cáo cho biết.

Nhờ thương mại điện tử, doanh thu của ngành bưu kiện đã đạt mức kỷ lục 229,7 tỷ đô la vào năm ngoái. Tốc độ tăng trưởng kép hàng năm trong 5 năm của Parcel đạt mức ấn tượng 10,6% vào năm ngoái.

Amazon tiếp tục rời xa các nhà vận chuyển quốc gia trong dịch vụ giao hàng chặng cuối – điều này có thể khiến một nửa hoạt động kinh doanh của Amazon mất đi từ UPS vào nửa cuối năm 2026, theo báo cáo. Điều này sẽ buộc UPS phải điều chỉnh chiến lược về mạng lưới và chiến lược tiếp cận thị trường, báo cáo cho biết thêm.

Vận tải hàng không đã có một năm bùng nổ vào năm ngoái, đạt doanh thu 100,5 tỷ đô la, mặc dù tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) 5 năm chỉ đạt 2,6%. Báo cáo cho thấy họ không kỳ vọng tốc độ tăng trưởng của vận tải hàng không sẽ tiếp tục duy trì như năm ngoái.

Hiệp hội Vận tải Hàng không Quốc tế (IATA) dự báo khối lượng hàng hóa sẽ đạt 80 triệu tấn trong năm nay, tăng 5,8% so với năm 2024, tức là chỉ bằng khoảng một nửa tốc độ tăng trưởng của năm 2024. Tổng doanh thu hàng không dự kiến ​​sẽ vượt mốc 1 nghìn tỷ đô la lần đầu tiên trong năm nay. Doanh thu vận tải hàng không dự kiến ​​sẽ đóng góp 157 tỷ đô la, chiếm khoảng 16% tổng doanh thu – so với mức cao 41% của năm 2021.

Vận tải biển đã có một năm 2024 bội thu, đạt doanh thu 161,6 tỷ đô la. Con số này gần gấp đôi doanh thu của đường sắt, đạt 97,3 tỷ đô la. Đường sắt có CAGR 5 năm thấp nhất trong số tất cả các loại hình vận tải, chỉ 3,1%.

Những thách thức đang đến

Các chuyên gia quản lý logistics đang phải đối mặt với vô số thách thức. Trong đó, bao gồm lạm phát phi mã, ảnh hưởng đến chi phí nhân công và máy móc, rồi đến những mức thuế quan khó chịu.

Các tác giả kết luận rằng: “Các hành động trả đũa thuế quan sẽ trở thành một thành phần không thể thiếu của chính sách thương mại quốc tế và làm gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu và ngành hậu cần”.

Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) dự báo thương mại toàn cầu có thể giảm 0,2% trong năm nay. Sự sụt giảm thương mại dự kiến ​​sẽ đặc biệt nghiêm trọng ở Bắc Mỹ, nơi xuất khẩu có thể giảm 12,6% và nhập khẩu giảm 9,6%, tùy thuộc vào mức độ cứng rắn của các mức thuế quan này trong tương lai.

Báo cáo lưu ý rằng: “Mặc dù hoạt động chuyển dịch sản xuất sang Mexico và Canada đã giảm đáng kể vào năm 2024, nhưng chiến lược này vẫn hấp dẫn các CEO và dự kiến ​​sẽ phát triển, có khả năng làm tăng khối lượng vận chuyển hàng hóa ở Bắc Mỹ nhưng lại gây áp lực lên cơ sở hạ tầng biên giới”.

Tất nhiên, phần lớn những điều này là do tự thân gây ra. Bởi vì yếu tố bất định lớn nhất chính là tác động của chương trình thuế quan của chính quyền Trump, hiện đang được tòa án xem xét. “Sẽ mất thời gian để đánh giá toàn diện các tác động lên cung và cầu toàn cầu”, báo cáo cho biết.

 Tóm lại, báo cáo SoL kết luận rằng năm 2024 là “một năm tương đối ổn định và thích ứng đối với ngành logistics”. Điều này đặt nền móng cho các năng lực “linh hoạt hơn”.

Để lại một bình luận